Lờn thuốc ở đây là sự rút gọn của “ vi khuẩn đề kháng kháng sinh ”.
Kháng sinh “xịn”
Có lần, một bạn trẻ đã tìm đến tôi để hỏi ý kiến xem , sau khi lén lút đi “ giải quyết sinh lý ” , cậu ấy nghi ngờ bị mắc bệnh , có thể đến nhà thuốc mua loại thuốc kháng sinh “ xịn ” nhất về dùng để tự chữa bệnh được không . Tôi vội vàng thuyết giảng một hồi , đại khái : “ Hiện nay , ở ta đang có tình trạng rất đáng lo ngại là có một số người bị các bệnh lây qua đường tình dục ( trước đây gọi là bệnh hoa liễu như : giang mai , lậu , mồng gà , hột xoài … ) nhưng không chịu đến bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán , hướng dẫn điều trị mà lại nghe mách bảo tìm mua loại kháng sinh mới nhất như các loại Cephalosporin thế hệ thứ 2 , 3 , các Fluoroquinolon thế hệ thứ 2 … để tự chữa bệnh . Làm như thế không chỉ hại cho bản thân , bởi vì dùng thuốc không đúng bệnh sẽ nặng thêm mà vô tình có thể làm hại cho cộng đồng . Những thuốc kháng sinh mới nhất được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện khi được bác sĩ điều trị chỉ định , hướng dẫn và theo dõi sử dụng vì đó là thuốc rất quý có tính dự trữ , nếu sử dụng bừa bãi
chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ bị đề kháng ” . Lúc đầu tôi nói, anh bạn trẻ có vẻ hiểu nhưng sau có vẻ ngơ ngẩn với hai chữ “ đề kháng ” . Tôi cố dùng chữ , văn vẻ nôm na để giải thích cho anh bạn trẻ hiểu thế nào là kháng sinh bị “ đề kháng ” . Anh bạn trẻ sau khi nghe buột miệng : “ A , ý thầy muốn nói “ lờn thuốc ” I ” ( chữ “ lờn thuốc ” người Nam bộ thường dùng ) .
Một lần khác , một vị cao tuổi đến tìm tôi để hỏi ý kiến xem có thể tự sử dụng một loại thuốc an thần gây ngủ khá thông dụng là Seduxen để chữa chứng mất ngủ . Tôi vội vàng trình bày tác hại của việc người bệnh tự ý dùng bừa bãi thuốc loại này , trong đó có tác hại rất nghiêm trọng
là thuốc làm cho bị nghiện . Người đã bị nghiện sẽ phải tiếp tục dùng thuốc không bỏ thuốc được và bị “ sự dung nạp ” . Theo thói quen, sau mấy chữ “ sự dung nạp ” , tôi bồi thêm tiếng nước ngoài “ tolerance ” giống y như đang giảng bài cho sinh viên . Ngay lúc đó , vị cao tuổi trố mắt và nhíu mày . Tôi thấy mình hớ nên trình bày thêm cho cụ hiểu thế nào là “ sự dụng nạp ” đối với thuốc gây nghiện . Rút kinh nghiệm , tôi dùng lời lẽ không chuyên môn lắm để nói với cụ . Khi ấy , cụ đã buột miệng :“ A , ý của dược sĩ muốn nói tới “ lờn thuốc ” ! ”
Tôi kể hai mẩu chuyện trên để cho thấy , trình bày một vấn đề chuyên môn cho người nghe không thuộc giới chuyên môn không dễ dàng chút nào . Phải diễn đạt sao cho dễ hiểu . Phải biết biến đổi từ ngữ chuyên môn rối rắm , lạ lẫm thành ngôn ngữ của đời thường . Tuy nhiên , điều tôi muốn nói nhiều hơn trong bài viết này là chữ “ lờn thuốc ” mà nhiều người thường hay sử dụng hiện nay có đến hai nghĩa .
Vi khuẩn đề kháng kháng sinh
Trước hết , đối với việc sử dụng thuốc là kháng sinh , “ lờn thuốc ” có nghĩa là vi khuẩn gây bệnh không còn nhạy cảm , có khả năng chống lại tác dụng của thuốc để đưa đến hậu quả là kháng sinh mà người bệnh sử dụng không mảy may gây tác hại đối với vi khuẩn. Như vậy , lờn thuốc ở đây đồng nghĩa với “ đề kháng ” là từ chuyên môn mà sinh viên y dược nào cũng nằm lòng , đề kháng của chính vi khuẩn đối với thuốc là kháng sinh . Lờn thuốc ở đây là sự rút gọn của “ vi khuẩn đề kháng kháng sinh ”.
Tuy sẽ nói rõ hơn về vấn đề này ở phần sau, nhưng thiết nghĩ ta cũng nên biết qua vi khuẩn lờn thuốc kháng sinh như thế nào để hiểu vì sao có lời khuyên phải dùng kháng sinh đúng thuốc ,
Đúng liều và đủ thời gian.
Vi khuẩn cũng là loài sinh vật mặc dù chúng rất nhỏ phải nhìn qua kính hiển vi mới thấy , ở chúng cũng có bản năng đấu tranh sinh tồn . Khi bị kháng sinh tấn công và nhất là liều kháng sinh ta dùng không đủ mạnh để tiêu diệt hoặc ức chế ( có loại kháng sinh chỉ ức chế làm cho vi khuẩn yếu đi chứ không chết hẳn vì chính cơ thể chúng ta sẽ tiêu diệt chúng ) thì vi khuẩn cũng biết cách “ thiên biến vạn hóa ” để tồn tại . Thứ nhất , chúng sẽ biến đổi thành dạng “ chai lì ” có thể chịu đựng được tác dụng của kháng sinh mà không chết . Thứ hai , chúng tiết ra chất hoạt động như một loại men ( còn gọi là enzyme ) để phân hủy thuốc , thí dụ có nhiều vi khuẩn tiết ra men Penicillinase để phân hủy các thuốc penicillin , thuốc penicillin không còn nguyên vẹn cấu trúc xem như mất hết tác dụng . Thứ ba , có một số kháng sinh chỉ có tác thấm sâu vào bên trong cơ thể vi khuẩn thì có một số điều chỉnh ” , tự thay đổi vỏ bọc của chúng để thuốc không thấm qua được . Thứ tư , các kháng sinh thuộc nhóm penicillin và một số nhóm khác có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn bằng cách cản trở không cho vi khuẩn tổng hợp bảo vệ thì một số vi khuẩn này thích ứng bằng cách trần trụi ”không cần vỏ bọc . Và còn nhiều cách để nữa , nhưng dù vi khuẩn có lẩn tránh , đề kháng khéo léo đến đâu , các nhà y dược học cũng không bỏ tay chịu thua dụ như trong điều trị , ngay từđầu phải dùng loại kháng sinh có tác dụng ( nên lưu ý có kháng sinh có tác dụng hiệu quả đối với loài vi khuẩn này nhưng không hiệu quả đối với loài vi khuẩn khác ) tức phải dùng đúng thuốc
Ngay từ đầu phải sử dụng ngay liều tấn công tức là liều mạnh để vi khuẩn bị tiêu diệt ngay không kịp tồn tại dưới dạng “chai lì” Sau đó, duy trì liều có hiệu quả trong suốt thời gian điều trị, bằng cách dùng nhiều lần thuốc trong ngày và dùng trong nhiều ngày. Nên đặc biệt lưu ý, thời gian dùng kháng sinh thông thường không dưới 5 ngày. Có loại bệnh nhiễm khuẩn phải dùng kháng sinh cả tháng, riêng bệnh lao phải dùng thuốc từ 6 tháng trở lên. Tức là phải dùng kháng sinh đúng liều và đủ thời gian thì mới mong khỏi bệnh. Để chống lại vi khuẩn đề kháng, các nhà y dược tìm cách chế tạo thuốc vô hiệu hóa các men phân hủy kháng sinh do vi khuẩn tiết ra (như bào chế biệt dược Augmentine gồm kháng sinh amoxicillin kết hợp với chất kháng lại penicillinase là acid clavulanic đã trị được các bệnh nhiễm khuẩn mà một mình amoxicillin không còn tác dụng). Hoặc, trong phác đồ điều trị, kết hợp nhiều kháng sinh cùng một lúc để vi khuẩn không kịp trở tay đề kháng, giống như hiệp đồng tác chiến giữa các binh chủng chống lại kẻ thù (ta thấy trong điều trị bệnh lao bao giờ các nhà điều trị cũng kết hợp từ 3 kháng sinh trở lên). Các cách chống lại đề kháng vừa kể thuộc phạm vi của các nhà chuyên môn. Riêng đối với người bệnh, người dùng thuốc chỉ dùng thuốc khi có sự chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc, không sử dụng bừa bãi kháng sinh (hoàn toàn tránh tình trạng mới bị cảm sơ sơ vội uống 1, 2 viên Ampi rồi thôi rất tai hại!) chính là góp phần đắc lực vào việc khống chế nạn “lờn thuốc” kháng sinh.
Sự dung nạp dẫn đến tăng liều dùng
Nghĩa thứ hai của “lờn thuốc” mà bà con ta cũng thường hay sử dụng là tình trạng của cơ thể do dùng một thứ thuốc lặp đi lặp lại nhiều lần với liều lượng cũ sẽ thấy thuốc không có tác dụng và phải tăng liều thuốc lên mới thấy thuốc có “ép phê”. Lờn thuốc ở đây đồng nghĩa với từ “sự dung nạp” mà tôi quen dùng từ thời còn là sinh viên để dịch chữ nước ngoài là “tolerance”. “Tolerance” còn được dịch là: sự dung nhận, dung tha, quen thuốc, chịu thuốc… (ôi, tiếng Việt mình phong phú quá mà trở nên rối rắm trong sự mô tả khoa học và ta nên thông cảm với một số tác giả viết bài chuyên môn thường mở ngoặc đơn viện dẫn chữ nước ngoài không hẳn để khoe chữ mà thật ra muốn làm rõ nghĩa). Không chỉ đối với thuốc, có một số chất con người quen dùng trong sinh hoạt hằng ngày cũng gây ra tình trạng “lờn” này. Thí dụ như rượu, có nhiều người lúc đầu chỉ uống nửa ly bia là mặt đỏ bừng, xây xẩm, thế mà chỉ một thời gian sau, nếu ngày nào cũng “lai rai vài sợi” sẽ uống tới vài xị rượu đế như chơi và không thấy hề hấn gì. Chỉ thấy “thế mới đã!”. Còn đối với thuốc, “lờn thuốc” là một đặc tính của thuốc gây nghiện, trong đó có thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc hướng tâm thần nói chung, kể cả ma túy. Ta không lấy làm lạ, có một số bạn trẻ nghiện hút heroin, lúc đầu chỉ xài 1 “tép”, dần dần sẽ phải xài nhiều “tép” để rồi phải dấn thân vào tội ác để thỏa mãn sự tăng “đổ” này. Có nhiều người quen dùng thuốc an thần gây ngủ (như Seduxen) càng ngày càng tăng liều dùng thì mới ngủ được. Nhưng ngay một số thuốc thông thường như Aspirin, các thuốc trị đau thấp khớp, có nhiều người quen dùng cứ thấy hiệu quả của thuốc giảm dần theo thời gian.
Khác với “lờn thuốc kháng sinh” đã kể gây ra bởi chính sự thay đổi của tác nhân gây bệnh là vi khuẩn, “lờn thuốc” trong trường hợp thứ hai gây ra bởi chính cơ thể của người dùng thuốc. Khi thuốc được đưa vào trong cơ thể, nó chỉ cho tác dụng khi gắn được vào nơi tiếp nhận (còn được gọi là thụ thể, chữ nước ngoài rất thông dụng gọi là receptor). Nơi tiếp nhận đó có thể là tế bào, là mô, là cơ quan (như hệ thần kinh chẳng hạn). Khi cơ thể quen dùng một thứ thuốc, các nơi tiếp nhận này sẽ thay đổi bản chất hoặc gia tăng số lượng tiếp nhận đưa đến phải gia tăng nồng độ thuốc trong cơ thể (tức phải gia tăng liều dùng) mới đáp ứng cho tác dụng được. Để đối phó với sự lờn thuốc này, chỉ có cách là tăng liều nhưng không thể tăng liều mãi vì sẽ đưa đến liều độc. Đối với thuốc có khả năng bị lờn theo kiểu này, thầy thuốc sẽ cho dùng với liều và thời gian dùng như thế nào để phòng tránh lờn thuốc. Hoặc khi đã lờn, bắt buộc phải thay thuốc khác. Trong lĩnh vực dược, người ta phải luôn luôn tìm ra thuốc mới, một phần để thay thế thuốc cũ bị lờn.
Có khá nhiều người tuy không phân biệt một cách rạch ròi hai trường hợp mà chữ “lờn thuốc” đề cập đến nhưng đều nhận thức được, nói đến “lờn thuốc” là nói đến sự tác hại. Mục đích của bài viết này nhằm giúp người đọc biết thêm “lờn thuốc là vi khuẩn đề kháng kháng sinh”, “lờn thuốc cũng là sự dung nạp đưa đến tăng liều dùng để đạt được tác dụng của thuốc”. Đối với người dùng thuốc, để hạn chế cả hai sự lờn thuốc kể trên, chỉ có cách là sử dụng thuốc khi thật cần thiết theo sự hướng dẫn của thầy thuốc, không lạm dụng và không sử dụng bừa bãi
Tham khảo các sản phẩm tại https://Chothuoctay.com