Tên khác
– Súc sa mật, mắc nồng, mè trẻ bà, co nảnh (Tày)
Công dụng
– Hành khí, điều hòa tỳ vị làm tiêu hóa dễ dàng, kích thích tiêu hóa, an thai, giảm đau, trị đau bụng, buồn nôn, ăn không tiêu, tiêu chảy, đau nhức cơ xương.
Liều dùng – Cách dùng
– Thường dùng uống 1 – 3g, có khi 4 – 6g dưới dạng thuốc viên, thuốc sắc hoặc hoàn tán. Nếu dùng thuốc sắc thì cho dược liệu vào sau, vì sắc lâu mất tác dụng của thuốc.
Không sử dụng trong trường hợp sau
– Người âm hư nội nhiệt không nên dùng (trường hợp nóng trong người, gầy yếu, miệng khô, khát nước, mồ hôi trộm, lòng bàn tay chân nóng…).
Dược lý
– Tính vị: Vị cay, tính ôn, có mùi thơm.
– Quy kinh: Tỳ, Vị, Thận.
– Giảm tính hưng phấn co thắt của ruột, cũng giải thích được tác dụng hành khí tiêu đầy bụng, chống co thắt làm giảm đau của thuốc.
– Kích thích và giúp tiêu hóa, thường dùng làm gia vị và chế rượu mùi.
– Giảm cholesterol máu.
– Kháng khuẩn: tinh dầu từ dược liệu có tác dụng diệt lỵ amip.
– Người âm hư nội nhiệt không nên dùng.
Bảo quản
– Dược liệu nếu trải qua sơ chế cần để nơi khô ráo, thông thoáng.
Đặc điểm
– Sa nhân là một loại cỏ có thể cao tới 2 – 3m, gần giống cây riềng nhưng thân rổ không phát triển thành củ như riềng. Lá xanh thẫm, mặt nhẵn bóng, dài 15 – 35cm, rộng 4 – 7cm.
– Hoa màu trắng đốm tía, mọc thành chùm ở gớc, từ rễ nảy ra một mầm, ngọn mang hoa gần sát mặt đất, mỗi gốc 3 – 6 chùm hoa, mỗi chùm 4 – 6 hoa. Quả là một nang 3 ngăn, đậu vào tháng
– Chín vào tháng 7 – 8 (6 – 7 âm lịch), hình trứng, to nhất bằng đẩu ngón tay cái, trung bình bằng đầu ngón tay giữa, dài 1,5 – 2cm, đường kính 1 – 1,5cm. Mặt ngoài vỏ có gai rất đều, không có cái cao cái thấp, kẽ gai cũng đều nhau, bóp mạnh sẽ vỡ thành 3 mảnh. Hạt dính theo lối đính phôi trung trụ. Mùa hoa: tháng 4 – 5.